Nhóm đối thoại giáo dục đưa ra hướng cải cách giáo dục đại học ở Việt Nam
Dân trí Nhóm Đối thoại giáo dục Việt Nam (VED) do GS Ngô Bảo Châu chủ trì vừa có bản tổng kết nghiên cứu khoa học và ước vọng về một nền đại học Việt Nam lành mạnh và tiến bộ. Bản tổng kết này đã gửi tới lãnh đạo có thẩm quyền.
Quan điểm chung của nhóm Đối
thoại giáo dục là: Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam cần được cải cách cơ bản
và sâu sắc ngay từ nguyên lý và quy tắc tổ chức; không thể chỉ thay đổi một vài
chi tiết. Cải cách cơ bản và sâu sắc là một quá trình lâu dài và liên tục,
không phải là một đơn thuốc có tính công phạt. Mô hình dài hạn cần hướng tới là
mô hình của các nước đã phát triển, nhưng cũng cần lưu ý tới những đặc thù của
đại học Việt nam để xây dựng một lộ trình cải cách hiệu quả.
Bên cạnh đó, tự
chủ đại học là một động lực rất lớn của quá trình cải cách. Vấn đề cần suy nghĩ
là hình thành khung pháp lý, thiết kế qui tắc quản lý nhà nước và quản trị nội
bộ, những thành tố làm nên nội dung của khái niệm “tự chủ đại học”.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thân mật tiếp Giáo sư Ngô Bảo Châu và Nhóm
đối thoại giáo dục năm 2014
Nhóm đối thoại đã đưa ra 5 đề mục cải cách đại học
Việt Nam, cụ thể:
Giao đại học về địa phương có khả năng tự chủ ngân sách.
Phân tích về mô hình này tại Việt
Nam, nhóm đối thoại giáo dục cho rằng, các trường đại học công lập thuộc sở hữu
toàn dân, được nhà nước đại diện làm chủ sở hữu. Cần phân biệt trách nhiệm điều
tiết ở tầm quốc gia với trách nhiệm làm “chủ" từng trường đại học. Định
chế được uỷ thác trách nhiệm làm chủ một đại học phải hoạt động toàn tâm toàn ý
vì sự phát triển, vì lợi ích riêng của trường mình, trong khi Bộ giáo dục và
đào tạo có trách nhiệm điều tiết để đảm bảo sự phát triển chung. Theo một nghĩa
nào đó, hơn 330 trường đại học và cao đẳng công lập ở Việt nam chưa có “chủ”
thực sự.
Hiện tại, một số đại học Việt nam
đã có hội đồng trường, nhưng số lượng ít và những hội đồng đang tồn tại chủ yếu chỉ có chức
năng tham vấn. Trên thực tế, ít người biết đến sự tồn tại của các hội đồng
trường.
Nhóm đối thoại cho rằng thay cho các hội đồng trường có vai trò tham vấn,
các trường đại học cần có hội đồng uỷ thác (hay còn gọi hội đồng tín thác - board of trustees) với
quyền lực tương tự như hội đồng quản trị của các doanh nghiệp. Địa phương và
các bộ ngành liên quan thực hiện quyền và trách nhiệm làm “chủ” của mình thông
qua hội đồng uỷ thác. Mọi quyết định quan trọng trong đó có việc chỉ định ban
giám hiệu trường và đề ra những phương hướng chính sách lớn liên quan đến quyền
lợi và sự phát triển của trường phải được thực hiện trong các cuộc họp của hội
đồng uỷ thác.
Việc thành lập hội đồng uỷ thác
và thiết lập cơ cấu của nó gắn liền với việc nhà nước phân quyền làm “chủ” đại
học cho địa phương và các bộ, ngành liên quan. Chỉ những định chế có lợi ích
gắn chặt với định mệnh của một trường đại học mới thực hiện tốt vai trò làm
“chủ”.
Việc giao đại học về địa phương
có thể bắt đầu từ các tỉnh thành phố có khả năng tự chủ ngân sách. Có thể xem
xét việc cho phép địa phương trích lập quỹ hỗ trợ giáo dục đại học từ khoản
ngân sách địa phương phải chuyển về trung ương nếu địa phương cam kết bảo trợ
tài chính cho đại học mình làm chủ. Khi ấy, trách nhiệm đảm bảo tài chính cho
việc vận hành trường của nhà nước sẽ giảm bớt một cách tương ứng.
Tăng đầu
tư toàn xã hội vào hệ thống đại học
Nhóm nghiên cứu đưa ra Ba thách
thức tài chính lớn trong giáo dục đại học Việt Nam hiện nay là:
Các trường đại học thiếu kinh phí một cách
trầm trọng.
Thứ nhất, do mức đầu tư của nhà nước
cho các trường công còn rất thấp.
Thứ hai,
mức học phí cho các trường công cũng rất thấp.
Thứ ba, các nguồn thu khác như
nguồn thu từ dịch vụ, nguồn thu từ dịch vụ khoa học, công nghệ, từ viện trợ,
tài trợ, hiến tặng cũng quá thấp, trung bình chỉ khoảng 3% tổng nguồn thu hiện
nay của các trường đại học Việt Nam.
Hệ quả của các vấn đề nêu trên là
chất lượng đào tạo suy giảm, cơ sở vật chất không đáp ứng yêu cầu và xuống cấp,
các trường phải tăng số lượng sinh viên và mở rộng các hệ đào tạo phi chính quy
làm giảng viên quá tải, không còn đủ thời gian dành cho nghiên cứu khoa học.
Nhóm đối
thoại khuyến nghị:
Cải cách tài chính cho hệ thống
các trường đại học Việt Nam cần tập trung vào ba lĩnh vực ưu tiên sau: Tăng đầu
tư toàn xã hội vào hệ thống đại học, bao gồm cả tài trợ từ ngân sách lẫn đóng
góp của xã hội; Tự chủ tài chính cho các đại học; Thay đổi cách phân bổ ngân
sách cho từng trường.
Cần lưu ý rằng tăng tự chủ không
có nghĩa là Nhà nước giảm hỗ trợ cho giáo dục đại học. Ngược lại, Nhà nước cần
ưu tiên đầu tư cho lĩnh vực này, nhất là ưu tiên đầu tư về nghiên cứu khoa học,
vì đây là đối tượng đầu tư quan trọng trong sự phát triển lâu dài của Việt Nam.
Tăng tự chủ là một phương thức giúp nhà nước phân bổ ngân sách hỗ trợ cho đại
học một cách hiệu quả hơn thay vì cào bằng, hay theo những chỉ tiêu có thể bàn
cãi.
Cơ chế thị trường cần được coi là
động lực mạnh mẽ nhất để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, huy động nguồn
thu và sử dụng nguồn lực hiệu quả. Dùng thị trường làm động lực có nghĩa là
tăng tự chủ, tạo điều kiện cho các trường (công và tư) cạnh tranh với nhau về
chất lượng giáo dục, mức học phí, và số lượng tuyển sinh, và qua đó, phục vụ xã
hội tốt hơn.
Song song, Chính phủ cần can
thiệp để giảm thiểu các khiếm khuyết chính sau của thị trường: Bất công bằng
trong giáo dục: chỉ người giàu mới đủ tiền đi học; Thiếu thông tin về chất
lượng của các trường để người đi học lựa chọn đúng đắn; Các trường chỉ tập
trung đào tạo theo nhu cầu của thị trường, và xem nhẹ những ngành có lợi ích
lâu dài cho xã hội.
Nhóm đối thoại kiến nghị: Giảm số môn bắt buộc, giảm số giờ lên lớp cho sinh viên
Chất lượng giáo dục đại học công bố hàng năm
Nhóm đối thoại cho rằng, có bốn công cụ đảm bảo chất lượng
chính như sau: Kiểm định chất lượng, công khai thông tin chất lượng, xếp hạng và
đối sánh.
Đối chiếu với hệ thống đảm bảo chất lượng ở nước ta hiện
nay, có thể thấy mặc dù cả bốn công cụ trên đều đã được triển khai, vẫn còn tồn
tại nhiều vấn đề.
Theo
nhóm đối thoại, để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, áp dụng đồng bộ cả 4 công
cụ của đảm bảo chất lượng kể trên là một điều cần làm. Theo đó, giao cho một tổ
chức độc lập tiến hành việc thu thập thông tin chất lượng giáo dục đại học và
công bố hàng năm trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các trường đại học,
cao đẳng có nghĩa vụ phối hợp với tổ chức nói trên trong quá trình thu thập dữ
liệu.
Có thể tham khảo từ các nước đã áp dụng trước đó như Mỹ,
Anh, Hàn Quốc để thiết lập bộ chỉ số thông tin chất lượng. Bộ thông tin
chỉ số có thể bao gồm: mức độ hài lòng của sinh viên sau tốt nghiệp, tỷ lệ sinh
viên có việc làm 12 tháng sau tốt nghiệp, thu nhập trung bình của sinh viên sau
tốt nghiệp …
Tuy vậy, trong điều kiện nguồn
lực hữu hạn, nhà nước nên tập trung vào hai công cụ kiểm định chất lượng và
công khai thông tin chất lượng hơn vì tính khả thi, và tính phổ dụng (có thể
cho toàn bộ hệ thống giáo dục đại học) cao hơn.
Giảm số môn bắt buộc, giảm số giờ lên lớp.
Nhóm đối thoại cho rằng vấn đề
nổi cộm nhất trong nghiên cứu khoa học và giảng dạy ở đại học Việt nam là sự ưu
tiên dành cho số lượng thay cho chất lượng.
Vấn đề này thể hiện trên nhiều
bình diện khác nhau, đó là khả năng
nghiên cứu khoa học; Tài trợ
nghiên cứu khoa học của nhà nước; Môi trường trao đổi và hợp tác; Số môn học và số giờ lên lớp bởi về số lượng, học trình ở đại học
Việt Nam nặng hơn nhiều so với đại học ở các nước tiên tiến.
Để lấy ví dụ, số môn học toán ở
ĐHQGTPHCM nhiều gấp hai số môn học toán ở Đại học Chicago. Tại ĐHKHXHNV, sinh
viên phải hoàn thành 60 môn học trong 7 học kỳ, trong khi trung bình sinh viên
ở đại học Mỹ trung bình học 4 môn một học kỳ. Nhìn chung, sinh viên Việt nam
học nhiều môn hơn, nhưng vì ít làm đề án, bài tập nên mức độ hiểu biết không
sâu, kỹ năng tự học và nghiên cứu còn rất yếu so với sinh viên ở các nước phát
triển.
Vì số lượng môn học quá nhiều (và
một phần vì lý do thu nhập), số lượng giờ đứng lớp của giảng viên hiện tại là
quá lớn. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng công tác nghiên cứu khoa
học và hướng dẫn sinh viên tìm tòi khám phá…
Khuyến
nghị: Giảm số môn bắt buộc, giảm số giờ lên lớp. Tăng số giờ thực tập, thực
hành, làm đề tài và làm bài tập. Khuyến khích việc sử dụng trực tiếp học liệu
do các trường đại học tiên tiến cung cấp để giảng viên giảm giờ dạy, tăng giờ hướng
dẫn thực hành và làm bài tập.
Lấy
trình độ nghiên cứu khoa học làm ưu tiên hàng đầu cho việc tuyển chọn giảng
viên. Thiết lập một số vị trí với điều kiện làm việc và đãi ngộ đặc biệt để tạo
ra những đầu tầu trong nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng. Thiết lập cơ chế
tài chính để hỗ trợ chi phí cho các nhà khoa học nước ngoài sang Việt Nam làm
việc.
Bên cạnh đó, tài trợ nghiên cứu khoa học của
nhà nước; tạo môi trường trao đổi và hợp tác.
Năm 2014, Nhóm đối thoại giáo dục đã tổ chức hội thảo với chủ đề “Đối thoại giáo dục
VN: Cải cách giáo dục ĐH” có sự hiện diện của Bộ trưởng Bộ Khoa học
Công nghệ Nguyễn Quân, lãnh đạo Bộ GD-ĐT và các nhà giáo
dục, đại diện các trường ĐH, CĐ, các doanh nhân.
Thiết lập nghị trường giảng viên
Nhóm đối thoại cho rằng, uy tín
của các trường đại học trong xã hội không chỉ phụ thuộc vào tiềm năng tài chính
và chất lượng nghiên cứu khoa học và giảng dạy mà còn phụ thuộc vào các định
chế dân chủ nội bộ, cũng như khả năng duy trì đạo đức và tự do trong học thuật.
Bản thân chất lượng nghiên cứu khoa học và giảng dạy cũng bị chi phối bởi khả
năng duy trì đạo đức và tự do trong học thuật. Môi trường học tập và nghiên cứu
khoa học trong các trường đại học có lành mạnh hay không phụ thuộc vào tính
minh bạch của các định chế dân chủ nội bộ.
Nhóm đối thoại khuyến nghị: Thiết lập nghị trường giảng viên (Faculty
Senate) với vai trò tham vấn mọi vấn đề liên quan đến giảng dạy và nghiên cứu
khoa học trong trường. Nghị trường giảng viên có thể đưa ra tiếng nói chung của
giảng viên đối với các hiện tượng vi phạm đạo đức khoa học hoặc tự do học
thuật. Nghị trường giảng viên bầu ra đại diện để tham vấn ban giám hiệu nhà
trường.
Thiết
lập nghị trường sinh viên
(Student Senate) với vai trò tham vấn mọi vấn đề liên quan đến học tập và đời
sống sinh viên. Nghị trường sinh viên bầu đại diện của mình để tham vấn ban
giám hiệu nhà trường.
Thiết
lập các ủy ban thông qua đó giảng viên có thể tham vấn trực tiếp cho Ban giám
hiệu. Trong số những ủy ban như thế có thể kể đến: ủy ban kế hoạch, ủy ban
tuyển dụng, ủy ban đề bạt,
ủy ban đánh giá thường niên …
Ban giám hiệu giao cho các uỷ ban nhiệm vụ tham vấn về những vấn đề cụ
thể.
Mỗi
trường đại học có quy chế nội bộ
để điều tiết quan hệ giữa hội đồng uỷ thác, ban giám hiệu, nghị trường giảng
viên, nghị trường sinh viên và các uỷ ban, phù hợp với quy chế chung của nhà
nước.
Các
trường đại học được tự chủ trong việc thiết lập ưu tiên trong nghiên cứu khoa
học và học trình giảng dạy.
Nhóm Đối thoại giáo dục gồm: Trần Ngọc Anh
(Đại học Indiana, Hoa Kỳ); Đỗ Quốc Anh (Học viện Nghiên cứu Chính trị
Sciences Po, Paris, Pháp); Vũ Thành Tự Anh (Đại học Princeton, Hoa Kỳ và
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, Việt Nam); Ngô Bảo Châu (Đại học
Chicago, Hoa Kỳ và Viện nghiên cứu cao cấp về toán, Việt Nam); Lê Hồng Giang
(Sydney); Phạm Hùng Hiệp (Đại học Văn Hoá Trung Hoa, Đài Loan) ; Ngô Quang
Hưng (Đại học bang New York ở Buffalo, Hoa Kỳ); Phạm Ngọc Thắng (Hà Nội); Phạm
Hữu Tiệp (Đại học Arizona, Hoa Kỳ); Trịnh Hữu Tuệ (Đại học Wisconsin tại
Milwaukee, Hoa Kỳ); Vũ Hà Văn (Đại học Yale, Hoa Kỳ); Nguyễn Phương Văn
(TPHCM).